Basel II là phiên bản thứ hai của Hiệp ước Basel, trong đó đưa ra các nguyên tắc chung và các luật ngân hàng của ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. Hiệp ước về vốn Basel II được trình bày như một tập hợp các quy định được đề xuất mà có thể sẽ mang đến một loạt các thách thức về tuân thủ cho các ngân hàng trên thế giới.
Giới thiệu
Basel II là phiên bản thứ hai của Hiệp ước Basel, trong đó đưa ra các nguyên tắc chung và các luật ngân hàng của ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. Hiệp ước về vốn Basel II được trình bày như một tập hợp các quy định được đề xuất mà có thể sẽ mang đến một loạt các thách thức về tuân thủ cho các ngân hàng trên thế giới.
Tuy nhiên điều quan trọng hơn là hàng loạt các tác động kinh doanh và các thách thức về quản lý rủi ro Basel II có thể mang đến cho các ngân hàng, đối thủ cạnh tranh phi ngân hàng, khách hàng, cơ quan đánh giá và cuối cùng là các thị trường vốn toàn cầu của họ.
Sự phức tạp của Hiệp Ước Mới, cũng như phụ thuộc lẫn nhau của nó với Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế và các quy định của từng nơi trên toàn thế giới, làm cho triển khai Basel II là một dự án có độ phức tạp cao.
Bài viết này đưa ra tổng quan về các khuôn khổ Basel II. Chúng tôi nhấn mạnh rằng bởi vì các yêu cầu dữ liệu của Basel II là đáng kể, Hiệp Ước Mới không chỉ đơn giản là một bài tập về dữ liệu và hệ thống thông tin. Trên thực tế, dữ liệu Basel II và các vấn đề CNTT là phương tiện để đi đến đích, không phải là một kết thúc. Bằng cách tập trung vào các khía cạnh của Basel II, các ngân hàng có thể bắt đầu được hưởng lợi từ các cơ hội quan trọng nhất của nó.
Phát triển và triển khai Basel II
Năm 1988, BCBS (Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng) đã giới thiệu một khung rủi ro tín dụng (Basel I) xác định các tiêu chuẩn về vốn để hạn chế rủi ro kinh doanh của các ngân hàng và tăng cường hệ thống tài chính. Để đáp ứng các yêu cầu của phát triển liên tục trong ngành ngân hàng, các quy định này đã được sửa đổi và vào tháng Sáu năm 2004, một hiệp ước về vốn mới (Basel II) được ban hành.
Để có thể triển khai Basel II hiệu quả, tất cả các ngân hàng sẽ cần phải xác định lại chiến lược kinh doanh của họ cũng như các rủi ro tiềm ẩn. Trên thực tế, việc tính toán nhu cầu vốn theo Hiệp Ước Mới đã yêu cầu ngân hàng thực hiện khung rủi ro toàn diện trên toàn bộ tổ chức.
Basel II cũng khuyến khích trên những cải tiến đang diễn ra trong đánh giá và giảm nhẹ rủi ro. Như vậy, qua thời gian, nó cung cấp cho các ngân hàng cơ hội để đạt được lợi thế cạnh tranh bằng cách phân bổ vốn cho các quy trình, phân đoạn và các thị trường chứng minh một tỷ lệ rủi ro/hiệu quả mạnh mẽ. Phát triển một sự hiểu biết rõ hơn về mối qua lại rủi ro/hiệu quả về vốn để hỗ trợ các doanh nghiệp cụ thể, khách hàng, sản phẩm và quy trình là một trong những lợi ích kinh doanh tiềm năng quan trọng nhất ngân hàng có thể bắt nguồn từ việc tuân thủ, như hình dung của Ủy banBasel
Basel II được thiết kế như một khung tiến hóa, vì vậy theo thời gian các cập nhật sẽ được thực hiện để bắt kịp với sự phát triển liên tục trong ngành tài chính. Trước khi thực hiện các quy định mới, Basel II có thể trải qua một sự điều chỉnh định lượng trên cơ sở các kết quả của nghiên cứu tác động gần đây nhất.Các yêu cầu về quản lý rủi ro của Basel II có thể mang tới những thay đổi đáng kể trong kinh doanh căn bản của một ngân hàng riêng lẻ cũng như trong cơ cấu tổ chức của nó. Với Basel II, đầu ra của việc quản lý tốt hơn rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành sẽ là đầu vào của mô hình vốn kinh tế mà sử dụng nó các ngân hàng có thể phân bổ vốn cho các chức năng và giao dịch khác nhau và phụ thuộc vào rủi ro.
Nhìn chung về Basel II
Với Basel II, ủy ban Basel đã từ bỏ phương pháp luận “một kích thước phù hợp với tất cả” (“one size fits all”) của hiệp ước về vốn năm 1988 về việc tính toán yêu cầu vốn pháp định nhỏ nhất và giới thiệu khái niệm “3 cột trụ” (three pillar concept) mà tìm kiếm để liên minh các yêu cầu pháp định với các nguyên tắc kinh tế của quản lý rủi ro.
Basel I giới hạn bằng việc đo lường rủi ro thị trường và đo lường cơ bản cho rủi ro tín dụng. Basel II giới thiệu một chuỗi các cách tiếp cận rủi ro tín dụng phức tạp và tập trung mới vào rủi ro vận hành. Basel II sử dụng khái niệm “three pillars”– (1) Yêu cầu vốn tối thiểu, (2) rà soát giám sát, (3) nguyên tắc thị trường.
Pillar I
Pillar I nhắc đến việc duy trì một lượng vốn pháp định được tính toán cho ba thành phần rủi ro mà ngân hàng đối mặt: rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành. Với thành phần rủi ro tín dụng có thể được tính toán theo ba cách khác nhau của thay đổi độ phức tạp, cụ thể là tiếp cận tiêu chuẩn hóa, IRB nền tảng và IRB cao cấp. IRB là viết tắt của “Internal Rating - Based Approach” - “Phương pháp tiếp cận dựa trên đánh giá nội bộ”.
Với rủi ro vận hành, có ba cách tiếp cận khác nhau - phương pháp tiếp cận chỉ số cơ bản, phương pháp tiêu chuẩn hóa, và phương pháp đo lường nội bộ. Đối với rủi ro thị trường phương pháp tiếp cận ưa thích là VaR.
Với Pilar I, tỷ lệ vốn tối thiểu bằng 8% là không thay đổi. Tỷ lệ này thể hiện mối quan hệ giữa các quy định về quỹ (vốn) của riêng ngân hàng và tài sản được điều chỉnh theo trọng số rủi ro, một cách tính toán khả năng gánh chịu rủi ro. Tài sản được điều chỉnh theo trọng số rủi ro là giá trị tài sản nhân lên với một tham số (trọng số rủi ro) mà là đại diện cho cho rủi ro (tín dụng) liên quan tới các tài sản này. Với rủi ro vận hành và rủi ro thị trường, hai loại rủi ro khác được tính toán trong khung Basel I, tài sản được điều chỉnh theo trọng số (mà được dùng trong tính tỉ lệ vốn tối thiểu) có nguồn gốc trực tiếp từ các yêu cầu về vốn được tính bằng cách nhân chúng với 12,5 (nghịch đảo của tỷ lệ tối thiểu 8%).
Pillar I, cũng cấp một cập nhật cơ bản của phương pháp Basel I cho tính toán tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro, mẫu số của tỷ lệ vốn. Đầu tiên, rủi ro vận hành được giới thiệu như một loại rủi ro mới cho các ngân hàng phải giữ vốn quy định. Rủi ro này bao gồm các thiệt hại do quy trình nội bộ không đầy đủ hoặc bị thất bại, do con người hay hệ thống, hoặc từ các sự kiện bên ngoài.
Thứ hai, một loạt các tùy chọn nhạy cảm với rủi ro và ngày càng tinh vi có thể dùng để quyết định yêu cầu về vốn của ngân hàng, cả cho rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành. Theo cách này, tùy chọn có thể được lựa chọn để phù hợp nhất với các đặc trưng riêng biệt của từng ngân hàng. Hơn nữa, ưu đãi được áp dụng chocác ngân hàng áp dụng cách tiếp cận phức tạp hơn và do đó cải thiện khả năng quản lý rủi ro của họ theo thời gian. Trong lĩnh vực rủi ro tín dụng, có hai phương phương pháp được tiếp cận, đó là tiếp cận tiêu chuẩn và tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ (IRB). Cách tiếp cận trước ràng buộc trọng số rủi ro với xếp hạng cung cấp bởi các cơ quan xếp hạng được công nhận. Cách tiếp cận sau sử dụng các ước tính của chính ngân hàng về các yếu tố rủi ro nhất định, dựa trên các yếu tố rủi ro được phép tính toán, khoảng cách được tạo ra giữa cách tiếp cận cơ bản và cách tiếp cận nâng cao. Các quy định mới về rủi ro tín dụng cũng bao gồm cả đối phó chi tiết với chứng khoán và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Cuối cùng, trong lĩnh vực rủi ro vận hành, ngân hàng có thể tính toán yêu cầu vốn trên cơ sở tổng thu nhập của mình (cách tiếp cận chỉ tiêu cơ bản và phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn). Với rủi ro thị trường, khung Basel mới về cơ bản không thay đổi cách tiếp cận hiện tại.
A. Cách tiếp cận được chuẩn hóa cho rủi ro tín dụng.
Trong cách tiếp cận đã chuẩn hóa, tài sản được phân loại thành một tập hợp các lớp tài sản được chuẩn hóa và một trọng số rủi ro áp dụng cho mỗi lớp, phản ánh mức độ tương quan của rủi ro tín dụng. Sự thay đổi so với Basel I liên quan đến sử dụng xếp hạng tín dụng bên ngoài làm cơ sở quyết định trọng số rủi ro. So với Basel I, nơi mà tất cả các tài sản đều được đánh trọng số 100%, thì giờ đây đã có sự cân nhắc khác nhau cho các trọng số rủi ro. Trọng số cho các doanh nghiệp đầu tư đã giảm đáng kể (ví dụ, tới 20% cho AAA), trong khi ở phân khúc doanh nghiệp không đầu tư, một trọng số rủi ro là 50% áp dụng cho doanh nghiệp được xếp hạng dưới “BB”. Hơn nữa, các doanh nghiệp không được xếp hạng giờ đây đã đạt được một trọng số rủi ro tương tự như lúc trước thu được theo Basel I.
B. Tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ cho rủi ro tín dụng.
Tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ cho rủi ro tín dụng (IRB) là một trong những yêu tố đổi mới nhất của khung Basel II mới bởi vì nó cho phép chính các ngân hàng quyết định các yếu tố căn bản khi tính toán các yêu cầu về vốn của họ. Với cách tiếp cận IRB, vốn yêu cầu tối thiểu dựa trên “phân bố xác suất thua lỗ” dựa vào rủi ro mặc định trong danh mục các khoản vay hay các công cụ tài chính khác. Nhận thức về đánh giá rủi ro được thiết lập trong một năm. Mô hình IRB tiếp tục giả định một mức độ 99.9% độ tin cậy, (nghĩa là một lần trong một nghìn năm), các tổn thất thực tế dự kiến sẽ vượt quá ước tính của mô hình.
Pillar II
Pillar II định nghĩa quá trình rà soát giám sát của khung quản lý rủi ro của tổ chức và cuối cùng là an toàn vốn. Nó đặt ra trách nhiệm giám sát cụ thể đối với hội đồng quản trị và quản lý cấp cao, do đó tăng cường nguyên tắc của kiểm soát nội bộ và quản trị doanh nghiệp khác do cơ quan quản lý ở các nước khác nhau trên toàn thế giới thực hiện.
Theo Ủy ban Basel, Hiệp Ước Mới nhấn mạnh tầm quan trọng của quản lý ngân hàng là phát triển một quy trình đánh giá vốn nội bộ và thiết lập mục tiêu cho vốn có tương xứng với hồ sơ rủi ro đặc biệt và môi trường kiểm soát của ngân hàng. Giám sát viên sẽ chịu trách nhiệm đánh giá xem các ngân hàng định giá nhu câu an toàn vốn của họ liên quan đến rủi ro của ngân hàng tốt đến mức nào. Sau đo các quy trình nội bộ sẽ là đối tượng được rà soát giám sát và can thiệp khi thích hợp. Kết quả là giám sát viên có thể yêu cầu, ví dụ, hạn chế về chi trả cổ tức hoặc nâng cao ngay lập tức vốn bổ sung.
Với quy trình rà soát giám sát, các câu hỏi cũng sẽ được đề cập là liệu các ngân hàng có nên giữ vốn bổ sung đối với những rủi ro mà không hoặc không hoàn toàn, được nhắc đến trong Pillar I, và điều này có thể liên quan đến hành động giám sát khi điều này thực sự xảy ra. Vai trò tích cực cho cơ quan giám sát sẽ cung cấp cho các ngân hàng ưu đãi để tiếp tục cải thiện mô hình và hệ thống quản lý rủi ro và của các ngân hàng. Đối với tình hình hiện nay, Pillar II đòi hỏi giám sát viên áp dụng cẩn thận hơn các quyết định trong việc đánh giá về an toàn vốn của các ngân hàng riêng lẻ.
Pillar III
Pillar III nhằm mục đích tăng cường kỷ luật thị trường thông qua tăng cường công khai thông tin của các ngân hàng. Nó đặt ra yêu cầu và khuyến nghị công kha thông tin trong một số lĩnh vực, bao gồm cả cách ngân hàng tính toán an toàn vốn và phương pháp đánh giá rủi ro của ngân hàng. Tăng cường so sánh và minh bạch giữa các ngân hàng là kết quả mong muốn của Pillar III. Đồng thời, Ủy ban Basel đã tìm cách để đảm bảo rằng Basel II tương ứng với các chuẩn mực kế toán, và trên thực tế, không xung đột với các tiêu chuẩn về công khai thông tin kế toán rộng hơn mà các ngân hàng phải tuân thủ.
Với Pillar III, các ngân hàng sẽ được yêu cầu công khai thông tin tập trung vào các thông số quan trọng của hồ sơ kinh doanh của họ, nguy cơ rủi ro và quản lý rủi ro. Những công khai như vậy được xem như là một điều kiện tiên quyết cho tính hiệu quả hoạt động của nguyên tắc thị trường ngân hàng. Cả hai thông tin định tính và định lượng phải được công khai. Do đó cần thiết công khai về cơ cấu và an toàn vốn, và thông tin công khai phải bao gồm chi tiết về vốn căn bản. Về công khai rủi ro tín dụng, thông tin về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tín dụng và tài khoản chứng khoán phải được cung cấp. Các ngân hàng sẽ được yêu cầu phác thảo một số chi tiết về việc sử dụng phương pháp tiếp cận IRB, mà đại diện cho một thành phần chính của Hiệp Ước Mới. Yêu cầu công khai còn bao gồm thêm việc tuân thủ các yêu cầu về rủi ro vận hành. Cuối cùng, Hiệp Ước Mới yêu cầu thông tin về cổ phần vốn chủ sở hữu và rủi ro lãi suất trong cuốn sách ngân hàng được xuất bản. (Hình 1)
Tóm tắt về Three Pillars
Pillar I : Yêu cầu về vốn tối thiểu
Pillar II: Rà soát giám sát
Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá an toàn vốn tổng thể của họ và chiến lược để duy trì mức vốn.
Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại “quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng”.
Các giám sát viên mong đợi ngân hàng hoạt động trên tỉ lệ vốn tối thiểu, và nên khuyến nghị các ngân hàng duy trì vốn ở mức cao hơn mưc tối thiểu.
Giám sát viên cần tìm cách can thiệp ở giai đoạn đầu để ngăn chặn vốn rơi xuống dưới mức tối thiểu.
Pillar III: Nguyên tắc thị trường
Nguyên tắc thị trường củng cố các nỗ lực để thúc đẩy an toàn và minh bạch trong các ngân hàng.
Công khai các thông tin cơ bản và các thông tin liên quan đã làm cho nguyên tắc thị trường hiệu quả hơn.
So sánh giữa Basel I và Basel II
Với Basel I, mức độ cphân biệt rủi ro rất đơn giản. Ngoại trừ chính phủ, tổ chức công cộng, ngân hàng, tài sản thế chấp nhà ở, các hệ số rủi ro là 100%. Cho vay Samsung Electronics và SOHO nhận được trọng số số rủi ro như nhau. Điều này là khônghợp lývới lẽ thường. Các đặc điểm chính của BaselII đang củng cốsự phân biệt rủi ro và tăng lợi ích cho ngân hàng mà có thể quản lý rủi ro sử dụng dữ liệu nội bộ đạt chất lượng. Đối với ngân hàng không có dữ liệu nội bộ đạt chất lượng, sẽ sử dụng giá trị ước lượng tiêu chuẩn được đưa ra bởi cơ quan giám sát. Điều này có ý nghĩa là đưa ngân hàng đến một sự biến đối sang một cấu trúc mà các hệ thống của ngân hàng như dữ liệu nội bộ, quy trình, quản lý và chiến lược có khả năng chống lại rủi ro thực tế. Môi trường pháp lý thay đổi ảnh hưởng đến kinh doanh và việc ra quyết định thông qua nhiều loại tương tác.
Kết luận
Yêu cầu quản lý rủi ro của Hiệp Ước Mới dường như mang đến một thay đổi đáng kể trong kinh doanh căn bản của ngân hàng riêng lẻ cũng như trong cơ cấu tổ chức của nó. Theo Basel II, các kết quả quản lý tốt hơn rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành sẽ là đầu vào của một mô hình vốn kinh tế mà dùng nó các ngân hàng có thể cấp vốn cho các chức năng và giao dịch khác nhau tùy thuộc vào rủi ro.
Để tránh khả năng yêu cầu dự trữ vốn cao hơn có thể gây nguy hiểm cho vị thế thị trường, các ngân hàng cần phải đảm bảo rằng họ có một cách tiếp cận triển khai toàn diện tại chỗ. Họ cũng cần phải cân nhắc làm thế nào những thách thức và cơ hội của Basel II có thể ảnh hưởng đến kinh doanh của họ và các mối quan hệ khách hàng của họ theo thời gian.
(Cnth theo Tạp chí thnh)
0 Nhận xét :
Đăng nhận xét