Dù không được mong đợi, nhưng rủi ro vẫn luôn hiện diện trong mọi quyết định đầu tư hay giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp và có thể biến những "giấc mơ ngọt ngào" của các ông chủ doanh nghiệp trở thành "quả đắng".
Tùy theo mức độ, rủi ro có thể gây ra những thiệt hại về tài chính, nhưng cũng có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khánh kiệt, thậm chí phá sản. Vì vậy, trong hoạt động của mình, một điều hết sức quan trọng mà mọi doanh nghiệp cần phải luôn quan tâm, đó là: Quản trị rủi ro. Thực hiện tốt điều này sẽ giúp doanh nghiệp triệt tiêu hoặc giảm thiểu những thiệt hại mà rủi ro có thể gây ra. Bài viết này xin được trình bày về vấn đề nhận diện rủi ro và phòng ngừa rủi ro đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).
Cùng với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta, rủi ro và quản trị rủi ro tài chính ngày càng nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư cũng như các nhà kinh tế học. Các dịch vụ phái sinh như: Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tương lai (future), Hợp đồng quyền chọn (options) và Hợp đồng hoán đổi (swaps)… đang được giới thiệu như là những công cụ phòng ngừa rủi ro có hiệu quả cao cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do yêu cầu về quy mô hợp đồng giao dịch và chi phí bỏ ra để phòng ngừa rủi ro, hầu hết các công cụ nói trên khó có thể áp dụng được đối với DNNVV - đối tượng thường hứng chịu nhiều rủi ro nhất bởi những biến động trên thị trường.
Tuy quy mô từng doanh nghiệp nhỏ bé, nhưng DNNVV lại chiếm số lượng rất đông đảo. Theo Cục phát triển DNNVV - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, DNNVV chiếm trên 96% số cơ sở sản xuất kinh doanh ở Việt Nam. Do vậy những rủi ro, tổn thất của khu vực DNNVV nếu diễn ra trên diện rộng, sẽ gây tổn thất lớn cho quốc gia cả về kinh tế và xã hội. Việc nhận diện những rủi ro tài chính đối với DNNVV để có biện pháp phòng ngừa thích hợp là hết sức cần thiết.
1. Nhận diện rủi ro tài chính đối với DNNVV
Đối với tất cả các loại doanh nghiệp, rủi ro tài chính thường bắt nguồn từ việc thực hiện các giao dịch liên quan trực tiếp đến tài chính như: Mua bán, đầu tư, vay nợ và một số hoạt động kinh doanh khác; nhưng cũng có thể là hệ quả gián tiếp của sự thay đổi các chính sách của Chính phủ, các biến cố chính trị trong nước và quốc tế, hoặc có thể do tác động của thiên tai,... Thông thường, các rủi ro mang tính tiềm ẩn, nên việc nhận diện chúng là không dễ dàng. Đối với khu vực DNNVV ở Việt Nam , có thể nhận diện các rủi ro tài chính chủ yếu thường xảy ra như sau:
Rủi ro trong thực hiện các giao dịch liên quan trực tiếp đến tài chính:
Ø Rủi ro tín dụng: Với quy mô vốn nhỏ, dưới 10 tỷ đồng, trong hoạt động đầu tư, DNNVV không thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán như các doanh nghiệp quy mô lớn, mà chỉ có thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng, hoặc thậm chí phải vay từ các cá nhân. Các khoản vay này thường chịu lãi suất cao, đòi hỏi phải có tài sản thế chấp. Phần lớn chủ DNNVV khi vay vốn phải sử dụng chính nhà ở của mình làm tài sản thế chấp. Với những rủi ro biến động lãi suất hiện nay (chủ yếu biến động tăng), nguy cơ doanh nghiệp bị lỗ vốn, không trả được nợ, dẫn đến bị siết nợ, mất nhà cửa... là mối quan ngại sâu sắc của nhiều chủ doanh nghiệp, cũng như của toàn xã hội.
Ø Rủi ro phát sinh từ sự biến động tỷ giá, hay giá cả các loại hàng hoá trên thị trường: Với đặc điểm quy mô nhỏ, nên DNNVV thường chỉ tập trung kinh doanh một vài loại mặt hàng. Điều này tạo nên rủi ro khá lớn khi giá cả mặt hàng đó biến động, nhất là trong tình hình lạm phát hiện nay. Nhiều khi doanh nghiệp vừa ký hợp đồng bán hàng xong, giá cả biến động tăng, tiền thu về không còn đủ để mua lại số hàng tương tự vừa bán.
Ø Rủi ro phát sinh từ các hoạt động hay giao dịch mua, bán hàng hóa, hoặc góp vốn đầu tư: DNNVV thường là đối tượng gánh chịu nhiều rủi ro trong hoạt động giao dịch với các đối tác khác, nhất là với các doanh nghiệp lớn hơn. Bởi vì lẽ thông thường, thị trường luôn bị chi phối bởi các doanh nghiệp lớn, nhiều khi cố tình khuynh đảo để tạo lợi thế cạnh tranh. Trong bối cảnh đó, DNNVV thường trở thành "nạn nhân", do thiếu thông tin khi giao dịch, không nắm chắc chính sách pháp luật, dễ bị cuốn theo tâm lý "bầy đàn" khi quyết định đầu tư...
Rủi ro liên quan đến thay đổi chính sách, pháp luật:
Cũng do đặc điểm quy mô nhỏ, DNNVV thường không tổ chức các bộ phận chuyên trách để nghiên cứu cập nhật thông tin, tìm hiểu về chính sách, pháp luật và không có chuyên gia giỏi giúp việc. Do vậy khi chính sách pháp luật có sự điều chỉnh, DNNVV thường không nắm bắt kịp thời. Nhất là trong điều kiện nước ta hiện nay, hệ thống pháp luật đang trong giai đoạn hoàn thiện, nên thường xuyên thay đổi cũng tạo nên những rủi ro cho DNNVV. Trong đó rủi ro thường gặp nhất là những thay đổi về chính sách thuế, các chuẩn mực về kế toán... Không ít DNNVV đã bị phạt thuế, truy thu thuế,... dẫn đến đang từ lãi chuyển thành thua lỗ, phá sản.
Rủi ro phát sinh từ nội bộ doanh nghiệp
Hầu hết DNNVV có bộ máy quản lý rất đơn giản, phương thức quản trị chủ yếu theo nguyên tắc thuận tiện. Điều này tạo ra nhiều nguy cơ rủi ro: Các quyết định thường mang tính chủ quan, chủ yếu dựa vào ý chí, kinh nghiệm của cá nhân chủ doanh nghiệp, dễ mắc sai lầm; các hoạt động phân tích, đánh giá, kiểm tra, giám sát... ít được chú ý, nên không phát hiện kịp thời các sai lầm, do vậy hậu quả của quyết định sai lầm thường rất nặng nề và khó sửa chữa.
Ở nhiều DNNVV, tài sản của cá nhân chủ doanh nghiệp không tách rời tài sản của doanh nghiệp, hoạt động của doanh nghiệp thường gắn liền với bí quyết, kinh nghiệm chuyên môn của chủ doanh nghiệp... Do vậy rủi ro của doanh nghiệp còn gắn liền với rủi ro của cá nhân chủ doanh nghiệp. Nhiều DNNVV đang hoạt động kinh doanh thuận lợi, nhưng chỉ vì chủ doanh nghiệp gặp rủi ro (tai nạn, bệnh tật, chết...), đã gặp khó khăn, thua lỗ, thậm chí dẫn đến giải thể, phá sản.
Các rủi ro khác
Ø Trong thị trường cạnh tranh, DNNVV còn chịu rủi ro "cá lớn nuốt cá bé", dễ bị các doanh nghiệp lớn hơn thôn tính, sáp nhập;
Ø Một số DNNVV có phát minh, sáng kiến, tạo sản phẩm mới, xây dựng thương hiệu uy tín nhưng do thiếu hiểu biết, hoặc có thể vì sợ tốn kém chi phí... nên chậm trễ đăng ký bảo hộ, có thể gặp rủi ro bị doanh nghiệp khác chiếm đoạt thương hiệu., bản quyền.
2. Quản trị rủi ro đối với DNNVV
Rõ ràng so với doanh nghiệp có quy mô lớn, rủi ro mà DNNVV phải đối diện có những đặc điểm khác. Và để phòng ngừa rủi ro, DNNVV cũng cần có những phương thức quản trị rủi ro thích hợp. Sau đây xin được đề xuất một số phương thức phòng ngừa rủi ro DNNVV có thể ứng dụng trong hoạt động kinh doanh của mình.
Khai thác tốt các cơ chế, chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV
Đứng trước các rủi ro lãi suất, rủi ro biến động tỷ giá, hay giá cả các loại hàng hoá,... DNNVV không thể có đủ điều kiện như các doanh nghiệp lớn (có đủ bộ máy, tổ chức, đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm…) để tính toán và cân nhắc các mức độ rủi ro và mức độ chịu đựng tổn thất khi rủi ro xảy ra; không thể đủ điều kiện và khả năng tính toán mức thu lợi có thể đạt được, tính toán mức tổn thất có thể chấp nhận được trong trường hợp xảy ra biến động xấu trên thị trường. Giả sử có làm được những điều trên, DNNVV cũng không đủ điều kiện để sử dụng các công cụ phái sinh như: forwards, future, options, swaps để phòng ngừa rủi ro. Đơn giản vì chi phí bỏ ra khi sử dụngcác công cụ này thường cao hơn tổn thất mà doanh nghiệp phải chịu nếu rủi ro xảy ra.
Ø Đối với rủi ro lãi suất, giải pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất là DNNVV nên tìm kiếm và tận dụng các khoản vay dài hạn với lãi suất ưu đãi. Hiện nay Chính phủ và các hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức tài chính đều có các cơ chế hỗ trợ tài chính cho DNNVV thông qua hoạt động của: Ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách xã hội, các quỹ đầu tư do nhà nước thành lập, quỹ đầu tư của các địa phương, các chương trình mục tiêu của Nhà nước... Tại các tổ chức này, DNNVV có thể vay vốn với lãi suất thấp, ổn định và loại trừ được rủi ro biến động tăng lãi suất. Dưới đây là
một số tổ chức tài chính chủ yếu thực hiện cơ chế hỗ trợ tài chính cho DNNVV ở Việt Nam hiện nay:
+ Ngân hàng Phát triển (NHPT) là tổ chức tài chính thuộc sở hữu 100% của Chính phủ, vốn điều lệ lên tới 5 nghìn tỷ đồng, hoạt động cho vay phi lợi nhuận. Chính sách tín dụng đầu tư phát triển của NHPT gồm: cho vay đầu tư phát triển, hỗ trợ sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư. Ngoài ra NHPT còn thực hiện chính sách tín dụng xuất khẩu như cho vay xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
NHPT cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay vay của các ngân hàng thương mại khác, được xác định bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng 0,5%/năm, một số trường hợp chỉ tính bằng với mức lãi suất trái phiếu Chính phủ. Thời hạn cho vay của NHPT khá dài, có thể tới 12 năm, một số trường hợp có thể tới 15 năm, giúp cho doanh nghiệp vay vốn chủ động hơn trong kế hoạch sản xuất, tái sản xuất và mở rộng đầu tư. Điều kiện cho vay của NHPT có thuận lợi như: Doanh nghiệp được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay. Trường hợp tài sản hình thành từ vốn vay không đủ điều kiện bảo đảm tiền vay, chủ đầu tư phải sử dụng tài sản hợp pháp khác để bảo đảm tiền vay với giá trị tối thiểu bằng 15% tổng mức vay vốn.
Tuy nhiên NHPT chỉ cho vay các dự án thuộc những đối tượng Chính phủ khuyến khích đầu tư (theo danh mục ngành nghề hoặc địa bàn do Chính phủ quy định). Việc vay vốn của NHPT đòi hỏi phải có dự án đầu tư được luận chứng rõ hiệu quả tài chính của dự án, kế hoạch trả nợ... Do vậy DNNVV cần phải có sự tư vấn hỗ trợ lập dự án của các tổ chức hoặc cá nhân tư vấn đầu tư chuyên nghiệp.
+ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo, có vốn điều lệ ban đầu là 5 nghìn tỷ đồng và được cấp bổ sung phù hợp với yêu cầu hoạt động từng thời kỳ. NHCSXH đã hình thành Sở giao dịch và 64 chi nhánh cấp tỉnh, thành phố, 597 Phòng giao dịch cấp huyện, 8076 Điểm giao dịch tại xã, phường. Hoạt động cho vay của NHCSXH gồm: Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống; góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội. Mức lãi suất cho vay khá thấp, cao nhất là 0,65%/tháng. Tuy nhiên đối tượng cho vay của NHCSXH chủ yếu là hộ nghèo, các đối tượng chính sách và các tổ chức kinh tế, cá nhân hộ sản xuất, kinh doanh thuộc các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa; mức cho vay để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khá nhỏ, tối đa không quá 30 triệu đồng. Do vậy chỉ thích hợp với các DNNVV thuộc đối tượng phù hợp và có nhu cầu vốn không lớn.
+ Quỹ Bảo lãnh tín dụng (BLTD) cho DNNVV: Quỹ này được thành lập nhằm mục tiêu trợ giúp các DNNVV vay vốn nếu không có đủ tài sản bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên tiến độ thành lập quỹ tại các địa phương rất chậm. Mặc dù có chủ trương thành lập từ năm 2001, nhưng đến nay phần lớn các địa phương mới đang xây dựng Đề án thành lập quỹ. Hiện nay các Bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước, Hiệp hội DNNVV cùng các địa phương đang tiếp tục bàn tìm biện pháp để giải quyết các vướng mắc cho sự ra đời của các Quỹ này tại các địa phương. Trong thời gian tới, các Quỹ BLTD cho DNNVV sẽ là một trong các kênh quan trọng hỗ trợ cho các DNNVV vay vốn, nhất là các doanh nghiệp khởi sự, thiếu tài sản thế chấp. Việc bảo lãnh tín dụng hiện nay chủ yếu vẫn do Ngân hàng phát triển đảm nhiệm, nhưng số lượng DNNVV nhận được bảo lãnh cũng rất khiêm tốn.
Ø Để phòng ngừa rủi ro lãi suất, một giải pháp rất quan trọng khác cho DNNVV đó là thuê, mua tài chính từ các công ty cho thuê tài chính. Đây là một loại hoạt động tín dụng trung - dài hạn, tài trợ vốn thích hợp cho các DNNVV, với những ưu điểm cơ bản: Không cần ký quỹ đảm bảo hay tài sản thế chấp, có thể được tài trợ đến 100% vốn đầu tư, lãi suất hoàn toàn dựa trên sự thỏa thuận của 2 bên, bên đi thuê không chịu rủi ro nếu lãi suất thị trường tăng... Khi kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp được quyền ưu tiên mua lại tài sản với giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại. Tuy hiện nay, cho thuê tài chính là một lĩnh vực còn mới mẻ ở nước ta (đến nay mới chỉ có 12 công ty cho thuê tài chính đăng ký hoạt động, gồm 8 doanh nghiệp Việt Nam và 4 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), nhưng trong tương lai, theo cam kết WTO, việc mở cửa, hội nhập trong lĩnh vực cho thuê tài chính sẽ dẫn đến nhiều công ty và tập đoàn kinh tế nước ngoài tham gia thị trường này tại Việt Nam. Vì vậy, đây sẽ là thị trường có điều kiện phát triển nhanh chóng và có thể là một sự lựa chọn tốt cho các DNNVV.
Ø Ngoài các cơ chế hỗ trợ tài chính trên, trong giai đoạn khởi sự, các DNNVV có thể tìm kiếm nguồn tài trợ từ các quỹ đầu tư mạo hiểm. Đến nay có gần 30 quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn rót vào nội địa khoảng 2 tỷ USD, trong đó có một số công ty quản lý quỹ đầu tư tập chung chính vào thị trường Việt Nam như Vina Capital, Mekong Capital, Dragon Capital. Khi nhận được sự tài trợ từ các quỹ đầu tư mạo hiểm, DNNNV còn nhận được sự hỗ trợ xây dựng bộ máy quản lý chuyên nghiệp. Tuy nhiên, để có thể huy động vốn thông qua hình thức này điều kiện đầu tiên và quan trọng đối với các DNNVV khởi sự là phải chứng tỏ được sản phẩm của mình có hiệu quả, tiềm năng về thị trường sản phẩm, triển vọng tăng trưởng tương lai rất cao.
·Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp và phát huy sự trợ giúp của chuyên gia
Trường hợp doanh nghiệp phải vay vốn, huy động vốn đầu tư với lãi suất thả nổi, điều DNNVV phải luôn chú ý đó là: kiểm tra các khoản nợ, duy trì khả năng thanh toán các khoản nợ đúng hạn. Để phòng ngừa rủi ro, DNNVV cũng cần xây dựng cho mình một cơ cấu tài chính hợp lý, đảm bảo cân đối về tỷ lệ giữa vốn vay trên vốn chủ sở hữu, để luôn bảo đảm khả năng trả nợ. Trước khi quyết định vay vốn cần phải có sự nghiên cứu kỹ, đánh giá khả năng trả nợ, phải hoạch định được nguồn trả nợ, thời gian trả nợ và lãi suất hợp lý, tránh tình trạng vay mượn bằng mọi giá. Khi có điều kiện, hãy thanh toán sớm các khoản nợ, bởi vì lãi suất đi vay thường khá cao, việc thanh toán bớt các khoản nợ, sẽ giảm được chi phí, đồng thời có điều kiện quản lý tốt các khoản nợ còn lại, qua đó giảm thiểu được rủi ro.
Hãy luôn luôn ghi nhớ "chữ tín là vàng". Trong các quan hệ giao dịch vay nợ cũng như mua, bán hàng hóa, góp vốn đầu tư… cần gi ữ "chữ tín”, để khi gặp rủi ro, doanh nghiệp sẽ vẫn có thể tìm kiếm được sự hỗ trợ của bạn hàng, đối tác… Đối với doanh nghiệp c ó phát minh, có sản phẩm mới, tạo dựng được thương hiệu uy tín cần đăng ký bảo hộ bản quyền và chú trọng duy trì thương hiệu của mình.
Đối với các rủi ro phát sinh từ các giao dịch với các nhà cung cấp, khách hàng hoặc trong các liên doanh góp vốn đầu tư, để phòng ngừa rủi ro, trước khi ký kết các hợp đồng giao dịch, DNNVV nên tham vấn ý kiến của các chuyên gia, của các hội, hiệp hội để hiểu rõ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. DNNVV cũng có thể tìm đến các văn phòng luật sư để nhận sự trợ giúp pháp lý cho từng giao dịch. Chi phí luật sư tư vấn theo vụ việc chắc chắn sẽ thấp hơn chi phí thuê luật sư dài hạn và thấp hơn tổn thất có thể xảy ra trong trường hợp giao dịch gặp rủi ro.
Liên kết các DNNVV để tạo sức mạnh chống lại các rủi ro:
Để tránh rủi ro lãi suất, ngoài việc tìm đến các cơ chế hỗ trợ tài chính, DNNVV cũng có thể huy động vốn bằng cách hợp tác, hợp vốn, quan hệ hỗ trợ cho nhau vay vốn nhàn rỗi giữa các DNNVV… Đối với các rủi ro về biến động tỷ giá, biến động giá cả hàng hóa, từng DNNVV riêng lẻ sẽ rất khó có giải pháp phòng ngừa hữu hiệu. Tuy nhiên, các DNNVV kinh doanh cùng nhóm hàng hóa có thể phòng ngừa bằng cách liên kết tham gia các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau.
Để giúp DNNVV liên kết chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, các hội, hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp... đóng vai trò hết sức quan trọng. Khi tham gia vào các hội, hiệp hội, DNNVV có thể nhận được sự hỗ trợ để nắm bắt kịp thời chính sách, pháp luật, được tư vấn, trợ giúp về pháp lý. Thông qua hội, hiệp hội, DNNVV có thể liên kết, hợp tác với nhau để có thể đủ điều kiện sử dụng các công cụ phái sinh như: forwards, future, options và swaps trong phòng ngừa rủi ro; có thể đoàn kết chống lại sự khuynh đảo thị trường, hoặc âm mưu thôn tính, sáp nhập của doanh nghiệp lớn.
Xác định quy mô hoạt động phù hợp với năng lực quản trị và xây dựng mô hình quản lý chuyên nghiệp
Phần lớn DNNVV thường có tổ chức bộ máy quản lý đơn giản, các quyết định đầu tư phần nhiều mang nặng tính chủ quan của chủ doanh nghiệp. Do vậy, trước khi nghĩ tới đầu tư mở rộng kinh doanh, điều đầu tiên mà DNNVV phải thực hiện là xem xét lại khả năng quản trị doanh nghiệp của mình. Không ít DNNVV đang thành công với quy mô hiện tại, nhưng ngay sau khi đầu tư mở rộng quy mô hoạt động đã thất bại và phải chịu những tổn thất nặng nề. Để phòng ngừa rủi ro, điều rất quan trọng là quy mô hoạt động phải phù hợp với mô hình và khả năng quản trị doanh nghiệp.
Các DNNVV được thành thành lập dựa trên bí quyết, kinh nghiệm chuyên môn của cá nhân, sau giai đoạn khởi sự, cần từng bước xây dựng mô hình quản trị phù hợp, giảm dần sự phụ thuộc vào cá nhân, để rủi ro của cá nhân không gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp./.
|
0 Nhận xét :
Đăng nhận xét