24/5/11

Vấn đề lạm phát mục tiêu


(Bài thuyết trình số 1)
                                         I. Giới thiệu

Lạm phát là một thông tin tồi tệ. Ngoài việc giá cả bị bóp méo, nó còn làm xói mòn tiết kiệm, giảm hiệu quả đầu tư, kích thích sự rút vốn (để đầu tư vào tài sản nước ngoài, kim loại quý, hoặc bất động sản không mang tính sản xuất), ức chế sự tăng trưởng, làm cho việc lập kế hoạch kinh tế trở thành một cơn ác mộng, và, ở hình thái cực đoan của nó, gây ra tình trạng bất ổn về xã hội và chính trị.
Vì vậy nhiều chính phủ xem lạm phát như là một tai họa và cố gắng kìm chế bằng cách áp dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ thận trọng, bền vững. Kinh nghiệm và sự thuận lợi được hầu hết các chính phủ đưa ra để quản lý chính sách tiền tệ của mình bằng cách dựa vào các mục tiêu trung gian như là cung tiền tệ hoặc tỷ giá hối đoái.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, bảy nền kinh tế tiên tiến nhỏ và trung bình đã phá vỡ cách truyền thống là sử dụng các mục tiêu trung gian và đã bắt đầu tập trung vào tỷ lệ lạm phát. Cách tiếp cận mới cho vấn đề muôn thuở của việc kiểm soát lạm phát thông qua chính sách tiền tệ được gọi là lạm phát mục tiêu.
Tại sao các nước này lại chọn lạm phát mục tiêu vượt lên trên các khung chính sách thay thế? Trước tiên, các nhà chức trách ở những nước này đã quyết định là phải thực hiện (mục tiêu) ổn định giá cả - một tỷ lệ lạm phát thấp và ổn định - là sự đóng góp lớn rằng chính sách tiền tệ có thể làm tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng tác động trong ngắn hạn của chính sách tiền tệ để đạt được các mục tiêu khác như việc làm hoặc sản lượng có lẽ sẽ được nâng cao hơn - có thể đối lập với sự ổn định giá cả.
Một số nhà kinh tế tin rằng một nỗ lực để đạt được một vài mục tiêu kinh tế sẽ làm cho chính sách tiền tệ đi chệch hướng mục tiêu lạm phát. NHTW chắc chắn nhận được nhiều lời chỉ trích đối với việc tăng lãi suất (một chiến thuật chống lạm phát) hơn so với việc hạ thấp lãi suất, và họ liên tục phải chịu áp lực để kích thích hoạt động của nền kinh tế. Lạm phát mục tiêu nói chung sẽ giúp khắc phục tính không đối xứng này - hơn là việc làm, sản lượng đầu ra, hay một số tiêu chí khác - mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Nó cũng buộc NHTW phải nhìn về phía trước, nắm bắt thời cơ thắt chặt chính sách trước khi áp lực lạm phát trở nên căng thẳng.
Lạm phát mục tiêu không phức tạp, ít nhất là trong lý thuyết. NHTW dự báo con đường tương lai của lạm phát, dự báo được so sánh với tỷ lệ lạm phát mục tiêu (tỷ lệ lạm phát của chính phủ cho là phù hợp đối với nền kinh tế); sự khác biệt giữa dự báo và mục tiêu sẽ quyết định chính sách tiền tệ phải được điều chỉnh là bao nhiêu. Những quốc gia đã áp dụng lạm phát mục tiêu tin rằng nó có thể cải thiện đề án và tính năng của chính sách tiền tệ so với các quy trình thông thường theo sau bởi các NHTW.
Tài liệu này đề cập ba vấn đề về lạm phát mục tiêu. Đầu tiên, giải thích các yêu cầu về việc chọn một chính sách đúng đắn. Thứ hai, đánh giá những kinh nghiệm của bảy nước công nghiệp. Và thứ ba, thảo luận về việc lạm phát mục tiêu có tính ứng dụng rộng hơn cho các nước đang phát triển.
II.                      Khuôn khổ, khái niệm chung:
II.1 Định nghĩa, lý thuyết tiền đề
Lạm phát mục tiêu là gì? Nó có thể được miêu tả như một cơ chế điều hành CSTT dựa trên nền tảng sử dụng việc dự báo lạm phát làm chỉ số mục tiêu trung gian. NHTƯ sẽ dự báo xu hướng lạm phát năm tới để đưa ra chỉ số lạm phát mục tiêu (định hướng bằng một chỉ số hoặc một khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà không có trách nhiệm thực hiện bất cứ chỉ tiêu nào khác. Trong năng của mình, NHTW có thể linh hoạt lựa chọn và sử dụng bất kỳ các công cụ để chỉ đạt một mục tiêu duy nhất - chỉ số lạm phát mục tiêu.
Ưu điểm : Khắc phục khá nhiều trở ngại khi sử dụng công cụ TGHĐ cố định hay các yếu tố tiền tệ: những mục tiêu trung gian để điều hành chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên, nhược điểm thứ nhất của cơ chế lạm phát mục tiêu là khi năng lực điều tiết của CSTT không cao sẽ đẩy NHTƯ vào vòng luẩn quẩn trong việc lựa chọn ưu tiên giữa các cơ chế điều hành (tỷ giá, lạm phát và khối lượng tiền) của CSTT. Thứ hai, khi áp dụng lạm phát mục tiêu, NHTW sẽ phải nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong việc thực hiện CSTT để đạt được chỉ số mục tiêu dựa trên chỉ số dự báo lạm phát do chính NHTW đưa ra. Khi đó dự báo lạm phát được xem như là mục tiêu trung gian của CSTT, vì vậy nhiều người đã không đề cập đến lạm phát mục tiêu mà chỉ nói đến dự báo lạm phát mục tiêu (inflation forecast targeting).
Điều kiện tiên quyết để một quốc gia có thể thực thi cơ chế lạm phát mục tiêu trong viêc điều hành chính sách tiền tệ :
1.                        Tính độc lập tương đối trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTW.
2.                        Đặt mục tiêu lạm phát lên hàng đầu và không cam kết cho việc neo các chỉ tiêu danh nghĩa khác.
Nhiều nhà kinh tế học và các nhà chức trách cũng có nhiều đồng thuận xung quanh 4 giả thuyết về cơ chế lạm phát mục tiêu :
1.                        Gia tăng cung tiền thì trung lập trong trung và dài hạn.
2.                        Lạm phát là một phí tổn, hoặc là sử dụng các nguồn lực tài chính trong một giới hạn (chi phí hiệu quả) hoặc là gia tăng sản lượng đầu ra trong dài hạn (phá vỡ tính trung lập tuyệt đối) hoặc là cả hai.
3.                        Trong ngắn hạn, tiền tệ có thể ảnh hưởng đến sản lượng hay tỷ lệ thất nghiệp.
4.                        Chính sách tiền tệ ảnh hưởng lên tỷ lệ lạm phát với một độ trễ trong một khoảng thời gian không xác định và với một mức độ khả biến, điều đó đã hạn chế khả năng kiểm soát lạm phát của NHTW trong nhiều chu kỳ liên tiếp.
Ngoài ra cũng có sự đồng thuận xung quanh một tiền đề khác : xu hướng gây lạm phát trong chính sách tiền tệ của NHTW và NHTW bắt buộc phải sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để đảm bảo được mục tiêu lạm phát đã đề ra =>mâu thuẩn động khi có sự phản đối từ nhiều phía về việc NHTW gia tăng lãi suất để thay đổi lạm phát, lãi suất cũng chính là một yếu tố quan trọng kích thích sự năng động của nền kinh tế nhưng đây cũng là nhân tố có thể ảnh hưởng đến việc ổn định giá cả trong dài hạn.
II.2 Điều kiện tiên quyết
1.                        NHTW có khả năng quản lý chính sách tiền tệ một cách đôc lập với chính sách tài khóa
Cụ thể ở điều này các bạn cần nắm rõ là không phải chúng ta yêu cầu một cách độc lập hoàn toàn khỏi ảnh hưởng của chính phủ mà ở đây NHTW được lựa chọn tự do các công cụ để đạt được tỷ lệ lạm phát mục tiêu.
Và để thể hiện điều này thì một đất nước phải không có biểu hiện rõ rệt của chính sách tài khóa thống trị. Sự điều khiển của chính sách tiền tệ sẽ không bi ức chế bởi sự phát triển của các chính sách khác. Điều này thể hiện rõ ở chỗ
·   Các khoản vay của Chính phủ ở NHTW sẽ không tồn tại hoặc nếu có sẽ rất ít.
·   Các thị trường tài chính có đủ độ sâu để hấp thụ các đợt phát hành nợ của chính phủ.
·   Chính phủ phải có nguồn thu rộng rãi và không phải đưa một cách hệ thống nguồn thu từ in tiền.
·   Các thành viên trong hội đồng CSTT phải độc lập với các diễn biến chính trị.
2.                        NHTW phải có khả năng thực hiện lạm phát mục tiêu cũng như không có bất cứ cam kết nào về mức độ và xu hướng của các mục tiêu khác như : tiền lương, tỷ giá, thất nghiệp. Và nếu có sự xung đột giữa các mục tiêu thì lạm phát mục tiêu sẽ được ưu tiên nhất.
Ở đây tôi sẽ giải thích tại sao NHTW không có bất cứ cam kết nào đối với
   Tiền lương: Khi chính phủ muốn tăng mức lương cơ bản thì sẽ dẫn tới giá cả tăng theo. Đặc biệt ở VN các bạn có thể nhận thấy rằng: Khi có bất kỳ một quyết định tăng lương nào thì chưa đến ngày quyết định này có hiệu lực thì giá cả đã tăng lên trước đó. Đây chính la yếu tố tâm lý, đám đông của người Việt, tăng cường tích trữ hang hóa, nạn đầu cơ làm cho cầu vượt quá cung làm giá cả gia tăng dẫn đến lạm phát.
   Tỷ giá hối đoái: Tý giá cố định, tỷ giá linh hoạt, tỷ giá thả nổi hoàn toàn.
-Tỷ giá cố định: thì điểu này rất dễ thấy được tác động như thế nào đến lạm phát bằng việc giữ vững tỷ giá NHTW phải  can thiệp vào mức cung cầu ngoại tệ từ đó làm ảnh hường tới khổi tiền, tạo áp lưc  lên lạm phát.
-Tỷ giá linh hoạt hay thả nổi có quản lý: thật ra với cơ chế tỷ giá này tuy  đã bỏ cơ chế tỷ giá ổn định nhưng phải ổn định tỷ giá nên vẫn tạo nên áp lực lạm phát do khối tiền bị thay đổi để ổn định tỷ giá
-Tỷ giá thả nổi hoàn toàn: về mặt lý thuyết, cơ chế tỷ giá này có thể cùng tồn tại với lạm phát mục tiêu. Để thực hiện tỷ giá thả nổi hoàn toàn thì điều này cũng đồng nghĩa với việc hủy bỏ việc kiểm soát các luồng vốn. Đối với các nước đang phát triển thì điều này không được mong đợi vì những hậu quả là không thể lường được.
   Lạm phát mục tiêu có thể tồn tại cùng với các mục tiêu khác nhưng theo những phân tích như trên thì hiệu quả mà nó đạt được sẽ là ở mức thấp nhất.
Một quốc gia thỏa mãn hai yêu cầu cơ bản, về nguyên tắc, có thể tiến hành chính sách tiền tệ của mình theo cách phù hợp với IT. Để làm được như thế, nhà chức trách phải đưa ra một khuôn khổ cho chính sách tiền tệ chứa đựng bốn yếu tố cần thiết:
(i)                       Các mục tiêu định lượng rõ ràng cho chỉ số lạm phát trong một giai đoạn phía trước,
(ii)                     Chỉ dẫn rõ ràng  việc đạt được mục tiêu lạm phát tạo thành mục tiêu quan trọng nhất của chính sách tiền tệ và trong đó nó cần được ưu tiên hơn các mục tiêu khác,
(iii)                   Một phương pháp luận “ mô hình”  dự báo chỉ số lạm phát có sử dụng một số biến và các chỉ số có thể chứa đựng thông tin về lạm phát trong tương lai.
(iv)                   Một phương thức hoạt động hướng tới tương lai trong việc thiết lập những công cụ chính sách   
II.3 Trình bày LPMT dưới dạng công thức, mô hình.
II.4 Các vấn đề gặp phải khi áp dụng IT
Thứ nhất, xử lý các đặc điểm kĩ thuật của IT bao gồm:
     + Lựa chọn loại chỉ số giá thích hợp (dựa trên chỉ số CPI  hoặc giảm phát GDP và những hàng hóa hợp lý trong CPI);
      + Xác định lạm phát mục tiêu (một chỉ số hoặc một khoảng biên độ);
      +Thoả thuận về khả năng huỷ bỏ giá trị mục tiêu hoặc từ chối chỉ số lạm phát mục tiêu trong một số trường hợp đặc biệt.
 Thứ hai, vấn đề liên quan đến việc thiết lập thể chế
     + Quyết định nên hay không nên xem lạm phát mục tiêu một mục tiêu uỷ thác bắt buộc, hay chỉ đơn giản là một yêu cầu hoạt động của chính sách tiền tệ
     + Lựa chọn phương tiện cụ thể nào để tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm của chính sách tiền tệ ( định kỳ phát hành thông tin dự báo cải thiện phương tiện thông báo cho công chúng về quyết định ảnh hưởng đến việc thiết lập các công cụ chính sách ...)
III.             Kinh nghiệm của các nước phát triển

Bắt đầu từ những năm 1990, một số nước công nghiệp tiên tiến đã thi hành chính sách tiền tệ của họ bằng cách sử dụng một khung lạm phát mục tiêu. Lạm phát mục tiêu đã được áp dụng ở New Zealand, Canada, Vương quốc Anh, Phần Lan, Thụy Điển, Australia và Tây Ban Nha. Trong một ý nghĩa nào đó, lạm phát mục tiêu là nền tảng mà những nước này để xây dựng một tỷ lệ lạm phát thấp và chính sách tiền tệ có uy tín. Ở những nước này, tỷ lệ lạm phát là mục tiêu bao trùm chính sách tiền tệ và được ưu tiên hơn các mục tiêu khác, chẳng hạn như tỷ giá hoặc việc làm.
   Việc công bố các mục tiêu lạm phát là khác nhau trên nhiều quốc gia. Ở Úc, Phần Lan, và Thụy Điển, các ngân hàng trung ương lúc đầu công bố mục tiêu lạm phát mà không có sự xác nhận rõ ràng từ chính phủ. Tại Canada và New Zealand, mục tiêu là kết quả của một thỏa thuận chung giữa Bộ trưởng Bộ Tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương.
Qua nghiên cứu bảng 2, cũng như nghiên cứu về kinh nghiệm khi đưa ra lạm phát
Phát mục tiêu ở các nước có nền kinh tế tiên tiến, bài nghiên cứu đã đưa ra được 5 đặc điểm của lạm phát mục tiêu khi áp dụng ở những nước này.
1.                        Lạm phát mục tiêu liên kết ở mức độ cao với sự linh hoạt của tỷ giá.
2.                        Các quốc gia theo cơ chế lạm phát mục tiêu có một mức độ độc lập nhất định của ngân hàng trung ương.
3.                        Lạm phát mục tiêu được xác lập ở những quốc gia có tầm nhìn xa rộng bằng chứng là họ sẽ không dồn sức điều chỉnh những cú sốc lạm phát trong ngắn hạn.
4.                        Các nước sử dụng lạm phát mục tiêu như một công cụ để xây dựng độ tín nhiệm của nền kinh tế vĩ mô.
5.                        Lạm phát mục tiêu thích hợp trong hoàn cảnh lạm phát ở mức thấp (<10%).

Giải thích:
Đặc điểm thứ nhất, IT có 1 mối liên hệ ở mức độ cao với sự linh động của tỷ giá hối đoái. Các nước thi hành chính sách IT có một cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi, vd: Anh, Thụy Điển, Phần Lan. Ở Canada thì có sự kết hợp với quyết định của các nhà chức trách trong việc điều chỉnh TGHD. Còn ở Tây Ban Nha, thông qua LPMT trong khi vẫn duy trì một TGHD có biên độ giao động (tuy nhiên, cơ chế này đã bị sụp đổ trong cuộc khủng hoảng tỷ giá năm 1993).
Đăc điểm thứ hai là tất cả các nước chấp thuận IT phải có 1 thước đo tính độc lập của NHTW. Điều này thể hiện ở 2 mặt
(i)                       Sự liên hệ giữa NHTW và ngân sách của Chính phủ (mức độ thống trị tài chính).
(ii)                     Khả năng NHTW hoạt động 1 cách độc lập với chính sách tiền tệ. Thật ra, khi thực hiện, NHTW của các quốc gia chấp nhận IT sử dụng lãi suất ngắn hạn như 1 công cụ chính, và dựa trên sự hoạt động hiệu quả của thị trường tài chính để chuyển giao sự thay đổi đến tổng cầu và lạm phát.
Đặc điểm thứ ba là IT được thiết lâp trong tương lai ở các quốc gia, không phải để chống lại những cú sốc trong chênh lệch lạm phát trong hiện tại, mà là họ sẽ đưa ra 1 lời cam kết bù trừ những tác động này trong tương lai khi lạm phát vượt ra ngoài giới hạn từ 1 đến 2 năm. Điều đó cũng đáng giá khi trong các trường hợp IT được định rõ trong một giai đoạn là 1 sự ước lượng hoặc 1 khoảng dung sai hơn là 1 điểm chính xác.
Thứ tư, tất cả các nước sử dụng IT như 1 công cụ xây dựng niềm tin công chúng vào nền kinh tế vĩ mô. Trên thực tế, các ngân hàng trung ương đưa ra mục tiêu lạm phát phỉa chịu trách nhiệm cho chính phủ. Do vậy, NHTW thường xuyên báo cáo cho quốc hội và công bố báo cáo hàng năm trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Kể từ năm 1989, thống đốc Ngân hàng Dự trữ New Zealand cũng đã được yêu cầu để xuất bản định kỳ sáu tháng một Tuyên bố Chính sách tiền tệ bàn về việc các ngân hàng đã đạt được các mục tiêu lạm phát trong sáu tháng trước đó và những gì chiến lược đưa ra là gì.
Ngân hàng Anh và Riksbank của Thụy Điển đã cho một số thời gian được phát hành báo cáo lạm phát gần đây và triển vọng lạm phát. Ngoài ra, Ngân hàng Anh tăng tính minh bạch của chính sách tiền tệ bằng việc xuất bản các biên bản cuộc họp của Ủy ban Chính sách tiền tệ của mình.
Cuối cùng, LPMT đươc áp dụng trong điều kiện lạm phát ( thấp hơn 10%).
Phạm vi thực hiện một mục tiêu lạm phát phụ thuộc một phần vào tỷ lệ lạm phát tại thời điểm chính sách được áp dụng.
Tại Canada và New Zealand, các nhà chức trách sử dụng mục tiêu lạm phát để khuyến khích làm giảm lạm phát, trong khoảng 18 tháng để đạt được mục tiêu ban đầu. Sau đó, họ đặt mục tiêu cắt giảm tỷ lệ lạm phát vào khoảng 12 tháng ở New Zealand và khoảng 18 tháng ở Canada. Khi lạm phát đã giảm xuống ở mức kỳ vọng, cả hai nước đã đặt ra mục tiêu cho 5 năm.
Nhìn chung, LP vẫn giữ nguyên hoặc gần phạm vi mục tiêu tại các quốc gia, tuy nhiên có lẽ là quá sớm để tuyên bố rằng phương pháp tiếp cận IT đã thành công trong việc điểu chỉnh lạm phát thấp hơn. Tuy nhiên, Trong thời gian 1988 ¬ 92, lạm phát mục tiêu giảm tỷ lệ lạm phát ở những nước này nhiều hơn so với các nước công nghiệp lớn và duy trì ở mức độ lạm phát sánh ngang với các nền kinh tế công nghiệp lớn.
IV. Vấn đề chung khi áp dụng LPMT ở các nước đang phát triển
1.      Những đòi hỏi ban đầu

Có một câu hỏi đặt ra các nước đang phát triển có nên áp dụng lạm phát mục tiêu không? Như chúng ta đều biết, các nước đang phát triển có những điếm giống và khác nhau riêng biệt, đặc biệt là trong CSTT và thị trường vốn. Một mặt, các nước có chung sự thay đổi: cải tổ thị trường vốn, mở cửa tham gia vào các thị trường vốn quốc tế, nâng cao tác dụng các công cụ gián tiếp của CSTT v.v... Mặt khác, các nước khác nhau rõ rệt về các chỉ số như: tỷ lệ lãi suất, mức độ phát triển thị trường vốn nội địa, thu nhập trên đầu người v.v... Như vậy sẽ rất khó khăn không chỉ trong việc đánh giá khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu, thậm chí không thể phân nhóm một cách thoả đáng đối với các nước đang phát triển.
Như đã nói ở trên, những tiền đề cần thiết của lạm phát mục tiêu là tính độc lập với ngân sách và trách nhiệm bắt buộc của NHTƯ đối với các chỉ tiêu khác - đây là hai vấn đề mà hầu hết các nước đang phát triển mắc phải. Trong một nước, nếu lạm phát kinh niên ở mức độ cao (tăng 30 - 40%/năm) đã đặt lên vai CSTT gánh nặng rất nhiều vấn đề phải giải quyết. Trong tình thế này, mục tiêu ưu tiên của những nước này là cần phải giảm thiểu thâm hụt ngân sách và hạ thấp dần lạm phát trong dài hạn. Ngoài ra, khi xem xét đến khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu tại các nước đang phát triển, những trở ngại cơ bản nhất là thu nhập của chính phủ dựa vào nguồn in tiền, thị trường tài chính trong nước yếu kém và hệ thống ngân hàng không ổn định.
- Dựa vào in tiền. Chú trọng vào nguồn thu từ in tiền là một bằng chứng đơn giản và rõ ràng nhất của chính sách tài khóa chi phối - khi mà chính phủ không đủ khả năng nâng cao và mở rộng cơ sở nguồn thu của mình. Đối với các nước đang phát triển, việc thường xuyên sử dụng in tiền làm nguồn thu chính là nguyên nhân làm biến dạng cấu trúc hệ thống thuế. Sự biến dạng này làm cho nguồn thu thuế mất ổn định và tệ hại hơn, nó làm mất cân đối trong việc phân chia gánh nặng thuế v.v... Việc ''dựa dẫm'' này còn làm tăng ''sức ì'' của các cơ quan quản lý - điều hành nhà nước và giảm lòng tin của công chúng vào chính phủ. Tuy nhiên, thông thường không điều gì có thể giới hạn được chính phủ sử dụng in tiền, đặc biệt khi các nước trong giai đoạn khủng hoảng.
- Thị trường tài chính. Thị trường tài chính yếu kém cũng có thể là một minh chứng cho việc ngân sách chi phối. Không hiếm khi tại các nước đang phát triển, thị trường tài chính trở thành ''sản phẩm phụ'' của việc xây dựng cấu trúc thị trường để bơm nguồn vốn từ hệ thống tài chính vào ngân sách. Một cách bơm vốn tương tự cũng có thể được diễn ra qua hiện tượng trấn áp tài chính và giới hạn thu nhập của khu vực ngân hàng. Ví dụ, hình thành giới hạn mức lãi suất trần và thực thi chính sách tín dụng nhằm kích thích đầu tư vào khu vực sản xuất để tăng nguồn thu từ thuế. Việc làm này dần dần sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tài chính. Một cách thức đơn giản nhất thể hiện sự yếu kém của hệ thống tài chính, ở những nơi xuất hiện ngân sách chi phối, và buộc trách nhiệm của ngân hàng vào việc phát hành giấy tờ có giá Chính phủ.
- Hệ thống ngân hàng. Một vấn đề nữa gây khó khăn cho việc áp dụng lạm phát mục tiêu tại các nước đang phát triển là hệ thống ngân hàng dễ đổ vỡ đây là một hệ quả rõ rệt của trấn áp tài chính dài hạn. Sẽ cần thiết củng cố khu vực ngân hàng cũng có thể dẫn đến xung đột nguyên tắc ổn định giá cả. Để nâng cao tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, điều thường xảy ra tại các nước đang trong giai đoạn chuyển đổi việc "rót vốn'' sẽ làm tăng tổng tiền cung ứng ngoài kế hoạch, và cuối cùng nó sẽ phá tan mọi kế hoạch duy trì giá cả ổn định của NHTƯ.
Mặt khác cũng cần ghi nhận rằng, sau khi cải tổ khu vực tài chính thì hệ thống Ngân hàng có thể sẽ độc lập tương đối, với những tác động của CSTT và như vậy xung đột giữa hai mục tiêu sẽ xảy ra: ổn định giá cả và phục hồi thu nhập của khu vực ngân hàng. Chỉ có thể tránh khỏi điều này chỉ bằng một con đường - đặt mục tiêu ổn định kinh tế lên trước thời kỳ tự do hóa tài chính.
2.      Những mâu thuẫn giữa các mục tiêu chính sách:
Trong thực tế, tương tác qua lại giữa ba yếu tố (Lạm phát - Chính sách tài khóa - TGHĐ) làm gia tăng mức độ phức tạp .
·   Ngày càng có nhiều thỏa thuận về TGHĐ linh hoạt được chấp nhận bởi nhiều nước này mà dường như không có sự can thiệp của các nhà chức trách nhằm thắt chặt mục tiêu TGHĐ (danh nghĩa hay thực) hay để chấm dứt việc dùng TGHĐ để hướng đến việc thiết lập các chính sách tiền tệ.
·   Những khó khăn chính xuất phát từ việc thiếu các phương tiện đáng tin cậy để truyền tải tới công chúng mức xếp hạng các mục tiêu chính sách của các nhà chức trách, và biểu hiện của TGHĐ và mục tiêu lạm phát.
Kinh nghiệm Israel
·   Israel đã sử dụng cả hai mục tiêu lạm phát và TGHĐ trong việc xây dựng các chính sách tiền tệ của mình. Cuối năm 1991, Ngân hàng Israel đã công bố trước một năm về việc neo tỷ giá đối với dải băng tỷ giá ngang giá trung tâm xấp xỉ bằng với sự khác biệt giữa mức LPMT của nhà chức trách trong năm đó và ước tính tỷ lệ lạm phát của các đối tác thương mại chính của Israel trên cùng phạm vi.
·   Một lượng lớn dòng vốn nước ngoài bất ngờ chảy vào trong nước.
·   Buộc Ngân hàng Israel đương đầu với sự đánh đổi giữa quan điểm nới lỏng  chính sách tiền tệ để kìm hãm sự tăng giá đồng nội tệ hoặc duy trì chính sách được coi là phù hợp có lợi cho mục tiêu lạm phát.
·   Trong nhiều trường hợp riêng biệt, một cuộc xung đột có thể nảy sinh giữa các chính sách cần thiết để bảo vệ dải băng tỷ giá và những gì cần thiết để đạt được mục tiêu lạm phát.
·   Vấn đề chính sách cuối cùng đã được giải quyết có lợi cho mục tiêu lạm phát và dải băng tỷ giá đã được mở rộng dần dần, nhưng phải can thiệp sau một thời gian dài
Chỉ cần một mục tiêu lạm phát cùng tồn tại với các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ và NHTW thiếu các phương tiện truyền đạt đến công chúng các ưu tiên về chính sách của mình và các biện pháp điều hành đáng tin cậy và minh bạch, một mức độ căng thẳng giữa lạm phát mục tiêu và mục tiêu chính sách khác sẽ không thể tránh khỏi.
Đặc trưng của LPMT
·   Các nước đang phát triển nên hướng đến mục đích đạt được một tỷ lệ lạm phát trung hạn mà có phần cao hơn so với các nước công nghiệp (lấy giữa 4% và 8%/năm làm ví dụ), và được phép dao động với dải băng có phần rộng lớn hơn để giúp điều tiết những cú sốc lớn hơn.
·   Các nước đang phát triển một khi đã đạt đến tỷ lệ lạm phát ở mức trung bình đến thấp (ví dụ thấp hơn 15%/năm), họ nên áp dụng một cách tiếp cận thận trọng và dần dần để đẩy mạnh quá trình giảm lạm phát tương lai.
·   Sự lựa chọn của chỉ số giá trên cơ sở lạm phát mục tiêu có khả năng khó giải quyết ở các nước đang phát triển hơn là trong nền kinh tế công nghiệp. Thực tế, các nước đang phát triển có xu hướng chịu nhiều cú sốc và có thể từ bỏ một số hạng mục không ổn định từ tỷ lệ lạm phát được sử dụng để hướng tới việc thiết lập chính sách tiền tệ.
·   Cần phải tăng cường uy tín và tính minh bạch của chính sách tiền tệ để xác định các mục tiêu liên quan đến chỉ số được sử dụng rộng rãi nhất trong công chúng để theo dõi diễn biến giá cả và dự tính về tiêu chuẩn lạm phát (thường là chỉ số CPI).
·   Cuối cùng, ở nhiều nước đang phát triển giá cả điều chỉnh hay bị quản chế là một thành phần quan trọng của chỉ số giá tổng hợp và còn trong động thái ngắn hạn của lạm phát. Trong trường hợp như thế này, một dự báo lạm phát thích hợp sẽ cần phải kết hợp các giả định rõ ràng về thời gian và quy mô của sự thay đổi những loại giá này.
Khuôn khổ chính sách tiền tệ trong 5 nền kinh tế thị trường mới nổi.
Sai lầm của nhóm nền kinh tế thị trường mới nổi có IT không phải do sự bất lực của quốc gia trong việc thực hiện chính sách tiền tệ độc lập mà do thực hiện một chính sách với quá nhiều mục tiêu càng dễ dẫn đến xung đột hơn.
(Cuộc nghiên cứu
Đối tượng: 150 nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi
Mục đích:xác định nước nào thực hiện được IT,tính năng chính của chính sách  tiền tệ của họ là gì, và làm thế nào để những khuôn khổ này là khuôn khổ IT.
Quy ước ::
 (1)chúng tôi tách nhỏ sáu câu hỏi chung thành 18 câu hỏi cụ thể;
 (2) chúng ta gán giá trị số đến những câu trả lời có thể có  cho mười ba câu hỏi, giá trị bằng số cao nhất để trả lời tương ứng với một quốc gia thực sự sử dụng IT như là một khuôn khổ cho chính sách tiền tệ.
 (3)chúng tôi dựa vào các câu trả lời của các nhân viên cho 13 câu hỏi để chọn ra 5 trường hợp.
 (4) chúng tôi tính toán hai tổng thể điểm cho mỗi quốc gia:hệ số một với mười ba câu hỏi, và hệ số 2 cho năm câu hỏi chính (cụ thể, các câu hỏi 4, 9, 10, 12 và
17).
Trong mỗi trường hợp, điểm chuẩn cho một kiểu  lạm phát "điển hình" (tức là, những nước được liệt kê trong bảng 2) được định mức là 100.
Đưa bảng 6 lên trình bày kết quả
Đưa bản 5 lên cho thấy rõ chính sách ở 5 nước được chọn)

Dựa vào điểm tổng kết cho năm trường hợp, Chile dường như là quốc gia thi hành chính sách tiền tệ gần nhất với LPMT, bởi điểm số nước này chỉ dưới điểm chuẩn ngầm khoảng 1/4(25%). Bài nghiên cứu xác định nhóm thứ 2 gồm các nước: Colombia, Indonesia, và Meexico - nhận được số điểm giống nhau một cách kì lạ (60%) dưới chuẩn ngầm. Kết quả cũng cho thấy rằng khuôn khổ chính sách tiền tệ của Philipines ít giống với khuôn khổ LPMT nhất.
Vài nhược điểm của bài nghiên cứu:
tất yếu có tính chủ quan
bài nghiên cứu đối mặt với chính sách tiền tệ trong trường hợp tại thời điểm bảng điều tra hoàn thành với một mẫu các nước được lựa chọn bởi nhân viên Quỹ tiền tệ quốc tế
àbài nghiên cứu không hoàn hảo để xác định các nước đang phát triển tuân thủ hoặc sớm tuân thủ những yêu cầu về thể chế cũng như hoạt động để áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu.

IV.             Kết luận

Bài viết cung cấp nền tảng cơ bản về việc thực hiện lạm phát mục tiêu ở các nước công nghiệp, nêu ra kinh nghiệm cho các nước đi sau và xem xét tính khả thi của lạm phát mục tiêu đối với các nước đang phát triển.
   Chúng tôi rút ra hai điều kiện tiên quyết của việc áp dụng lạm phát mục tiêu là: sự độc lập của chính sách tiền tệ và không có cam kết hay đường lối cụ thể về tỉ giá hối đoái hay bất kì biến neo danh nghĩa nào như là lương. Quốc gia nào thỏa mãn được 2 điều kiện này thì có khả năng áp dụng được lạm phát mục tiêu, thực chất là một quá trình bao gồm 4 bước: Một là thiết lập một cơ chế chứa đựng một mục tiêu rõ ràng về lạm phát trong tương lai. Hai là thiết lập cam kết thực hiện mục tiêu đó như một ưu tiên hàng đầu với đầy đủ những chế tài cần thiết để xử phạt những sai phạm trong quá trình thực hiện. Ba là xây dựng một mô hình dự báo lạm phát có hiệu quả hướng về tương lai chứ không đơn thuần chỉ sử dụng dữ liệu quá khứ. Và cuối cùng là xây dựng một quy trình điều chỉnh trong trường hợp lạm phát dự báo khác với mục tiêu. Ở các nước đang phát triển, những yêu cầu cần thiết để áp dụng lạm phát mục tiêu một cách hiệu quả không tồn tại bởi vì hai nguyên chính: Thuế phát hành tiền là một nguồn thu tài chính quan trọng và không có sự thống nhất giữa tỉ lệ phát thấp với mục tiêu hàng đầu. Trong khi đó ở các nước công nghiệp, nhờ sự độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ và sự linh hoạt của tỉ giá nên lạm phát mục tiêu được thực hiện từ một điểm lạm phát thấp (nhỏ hơn 10%)
   Những yêu cầu nghiêm ngặt về kĩ thuật và thể chế khiến cho việc áp dụng lạm phát mục tiêu vào các nước đang phát triển chưa khả thi, ít nhất là trong thời kì gần đây. Tuy nhiên, theo thời gian, có sự tăng cường và củng cố về mặt thể chế, lạm phát mục tiêu rất có thể là một lựa chọn hấp dẫn không thể bỏ qua đối với các nước đang phát triển khi mà họ nhận thấy được sự vững chắc và ổn định  trước biến động của các nước công nghiệp đã áp dụng mô hình này. Trên thực tế, lạm phát mục tiêu sẽ nhận được nhiều sự quan tâm hơn từ các nước đang phát triển vì tính lưu chuyển cao của vốn và tính bất ổn trong cầu tiền làm neo danh nghĩa ít khả thi.
Phần mở rộng cho Việt Nam
Theo quyết định Số:112/2006/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ Về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 phần đổi mới điều hành chính sách tiền tệ có đoạn như sau: “Thực hiện điều hành CSTT dựa trên cơ sở điều tiết khối lượng tiền; đồng thời xây dựng các điều kiện cần thiết để chuyển dần sang thực hiện điều hành CSTT trên cơ sở điều tiết lãi suất. Tạo lập các điều kiện cần thiết để sau năm 2010 NHNN chuyển sang điều hành CSTT theo cơ chế lạm phát mục tiêu.” Tức là tại thời điểm năm 2006, chính phủ đã thấy được tầm quan trọng của việc sớm đưa cơ chế LPMT vào trong điều hành CSTT nhưng thật sự thì chúng ta đã áp dụng đc cơ chế LPMT hay chưa? Để trả lời cho câu hỏi này, trước tiên chúng ta sẽ nói sơ qua về thực trạng nền kinh tế vĩ mô hiện nay, sau đó sẽ đánh giá các điều kiện tiên quyết để áp dụng LPMT ở VN và đưa ra những phân tích, gợi ý chính sách.

I.                   Thực trạng nền kinh tế vĩ mô

Ø  Tăng trưởng kinh tế ở mức cao 6,78%, cao hơn mục tiêu 6,5% của Quốc hội đề ra và cao hơn mức 5,32% năm 2009.
Ø  Vốn thực hiện FDI là 11 tỷ USD, tăng 10%; vốn đầu tư gián tiếp (tính cả 1 tỷ USD phát hành trái phiếu Chính phủ) đạt 2,43 tỷ USD, tăng 190% so với năm 2009. Cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 4,6 tỷ USD, thấp hơn mức 8,8 tỷ USD năm 2009;
Ø  Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ở mức cao, đạt 41,9% GDP;
Ø  Tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp 2,88%; tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm từ 12,3% năm 2009 xuống còn 10,6%; Thâm hụt ngân sách 5,6% GDP, thấp hơn mức 6,9% GDP năm 2009.
Ø  Đây là những thành quả rất tốt trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên để đạt đc những kết quả này chúng ta đã hy sinh 1 chỉ tiêu cực kỳ quan trọng khác đó là lạm phát. Chỉ tiêu kiềm chế lạm phát ở mức Quốc hội đề ra (khoảng 7-8%) trong năm 2010 là chưa đạt được. Thực tế chỉ số giá tiêu dùng CPI năm 2010 tăng 11,75% so với cuối năm 2009; so với cùng kỳ là 9,79%.
II. Đánh giá khả năng thực hiện LPMT:
1. Mức độ Độc lập của NHNN
Ở nước ta, NHNN là cơ quan trực thuộc Chính phủ và Thống đốc là thành viên Chính phủ.
Thực tế, NHTW các nước trên thế giới hiện nay đều có sự độc lập nhất định trong hoạt động ở 3 lĩnh vực: Điều hành CSTT, Giám sát các TCTD và Quản trị điều hành nội bộ. Tuy nhiên mức độ độc lập là không giống nhau. Theo tổng kết của IMF sự độc lập của NHTW các nước có thể chia ra làm 4 mức độ:
(1) Mức độ cao nhất là “Độc lập trong việc thiết lập mục tiêu”: NHTW có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá nếu như nó không được thả nổi (Ví dụ như Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ- Fed được lựa chọn mục tiêu hoạt động trong số các mục tiêu có thể xung đột với nhau là tuyển dụng nhân công và ổn định giá cả).
(2) Mức độ độc lập thứ 2 là “Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động”: NHTW được trao trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá nhưng khác với kiểu Độc lập về mục tiêu, Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động có một mục tiêu chủ yếu đã được xác định rõ ràng trong Luật. Ví dụ, trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của ECB quy định mục tiêu là ổn định giá cả, và ECB được quyết định chỉ tiêu hoạt động.
(3) Mức độ độc lập thấp hơn là “Độc lập trong việc lựa chọn công cụ điều hành”: Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu chính sách tiền tệ, có sự bàn bạc, thỏa thuận với NHTW. NHTW có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu.
(4) Mức độ độc lập thấp nhất là “Mức độ độc lập bị hạn chế thậm chí không có”: Chính phủ sẽ quyết định chính sách (cả mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như là can thiệp vào quá trình triển khai thực thi chính sách.
Đối chiếu với các mức độ độc lập nêu trên, thì NHNN Việt Nam hiện nay đang ở mức độ độc lập thấp nhất.
3.      Mục tiêu được ưu tiên thực hiện của NHTW
Do sự phụ thuộc của NHNN vào Chính phủ nên mục tiêu của CSTT thay đổi theo từng thời kỳ kinh tế, nhằm phù hợp với sự điều hành tổng quan nền kinh tế vĩ mô của CP.
Ø  Về mục tiêu, theo Điều 1 Luật NHNN, NHNN thực hiện nhiều mục tiêu xung đột lẫn nhau như ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
Ø  Về xây dựng chỉ tiêu hoạt động, thì Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hàng năm trong mối tương quan với cân đối NSNN và mức tăng trưởng kinh tế (Điều 3 Luật NHNN). Chính phủ xây dựng dự án CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hàng năm trình Quốc hội quyết định (Điều 3 Luật NHNN) ;
Ø  Về việc tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành, Chính phủ tổ chức thực hiện CSTT quốc gia; quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội, quyết định chính sách cụ thể khác và các giải pháp thực hiện (Điều 3 Luật NHNN);
Ø  NHNN xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này (Điều 5 Luật NHNN); NHNN cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động cuả các TCTD, trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định (Điều 5 Luật NHNN);
Ø  NHNN tạm ứng cho NSTW để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm ngân sách, trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định (Điều 32) ;
Ø  NHNN tổ chức thực hiện việc in, đúc, bán ở trong nước và ngoài nước các loại tiền mẫu, tiền lưu niệm được thiết kế phục vụ cho mục đích sưu tầm hoặc mục đích khác theo quy định của Chính phủ (Điều 27 Luật NHNN);
Ø  Chính phủ ban hành quy chế nghiệp vụ phát hành tiền bao gồm các quy định về việc in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành, thu hồi, thay thế, tiêu huỷ tiền và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ phát hành tiền. Bộ Tài chính kiểm tra việc thực hiện quy chế nghiệp vụ phát hành tiền; Bộ Tài chính, Bộ Nội Vụ giám sát quá trình in đúc, tiêu huỷ tiền. (Điều 28 Luật NHNN);
Rõ ràng, ở Việt Nam không có sự ưu tiên hàng đầu của việc kiềm chế lạm phát trong quá trình điều hành CSTT của NHNN, nơi mà đáng ra thì nhiệm vụ chính phải là đảm bảo kiểm soát được mức lạm phát đã đề ra.
Ngoài ra, hệ thống tài chính, ngân hàng của Việt Nam vẫn còn non trẻ, chưa có khả năng chịu đựng những cú sốc lớn. Sự hạn chế của hệ thống tài chính trong nước đồng thời làm suy giảm tính hiệu quả của các chính sách tiền tệ được thực hiện bởi NHNN.
Tóm lại, với việc chưa đáp ứng được 2 điều kiện tiên quyết để áp dụng cơ chế LPMT. Cộng với sự yếu kém của hệ thống tài chính, ngân hàng, nền kinh tế chưa phát triển đến mức để có thể hy sinh các mục tiêu trung gian khác để đảm bảo kiềm chế lạm phát thì hiện nay chúng ta vẫn chưa thể áp dụng được cơ chế LPMT trong điều hành CSTT. Hơn nữa, việc kiểm soát lạm phát cần được dựa trên nền tảng tăng trưởng tiềm lực kinh tế, khả năng điều tiết cao của các công cụ CSTT và phải có lộ trình đưa ra các biện pháp điều chỉnh lạm phát phù hợp, nếu không chúng ta sẽ rơi vào là vòng luẩn quẩn trong điều hành CSTT. Tuy nhiên, hiểu được tầm quan trọng của việc áp dụng cơ chế LPMT và những vấn đề còn tồn tại cản trở quá trình áp dụng LPMT, chúng ta sẽ có những giải pháp thích hợp để dần xóa bỏ những rào cản, đáp ứng đủ những điều kiện cần thiết để áp dụng cơ chế LPMT trong thời gian sớm nhất.
III. Gợi ý chính sách
  1. Trong dài hạn:   Thấy được những điểm yếu kém trong nền kinh tế nước ta cũng là nguyên nhân dẫn đến việc chưa thể áp dụng được cơ chế LPMT. Chúng tôi đề xuất những giải pháp mà theo đó có thể khắc phục dần dần những điểm yếu kém đó. Đây là những giải pháp mang tính dài hạn không thể thay đổi trong trong một thời gian ngắn, do đó yêu cầu trong quá trình thực hiện cần tiến hành một cách bền vững, không nóng vội, tránh gây ra những hiệu ứng khác có tác hại xấu đối với nền kinh tế.
l. Tăng cường quyền hạn quản lý Nhà nước về tiền tệ cho NHNN để có thể kiểm soát và điều tiết tất cả các kênh bơm/hút tiền cũng như nâng cao đủ mạnh tính độc lập của NHNN trong việc xây dựng và thực thi CSTT;
2. Phát triển thị trường tài chính đủ sâu về quy mô cũng như khối lượng giao dịch, tương xứng với nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế trong tương lai, đặc biệt chú trọng vào thị trường chứng khoán.
3. Tiếp cục củng cố hệ thống các TCTD một cách lành mạnh và hiệu quả, nâng cao năng lực quản trị rủi ro, kỹ năng quản trị điều hành và hiện đại hóa công nghệ của các TCTD; Nâng cao năng lực giám sát của NHNN trên cơ sở tiến tới áp dụng căn bản các chuẩn mực quốc tế về thanh tra, giám sát ngân hàng.
4. NHTƯ và Tổng cục Thống kê cần phối hợp nghiên cứu, nâng cao khả năng dự báo lạm phát để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, tạo thế chủ động trong việc điều hành chính sách tiền tệ và nâng cao niềm tin của các chủ thể kinh tế.
5. Nâng cao tính minh bạch của CSTT. NHTƯ cần phải công khai công bố những thay đổi của CSTT và giải thích cụ thể nguyên nhân của sự thay đổi đó. Tính công khai và minh bạch sẽ giúp NHTƯ nâng cao hiệu quả thực thi chính sách - tác động nhanh đến các chủ thể kinh tế, giảm bớt độ trễ của chính sách cũng như phản ứng tiêu cực từ phía thị trường.
  1. Trong ngắn hạn   Để thực hiện được giải pháp trên thì yêu cầu nền kinh tế phải phát triển đến một mức độ nhất định. Chẳng hạn như: tốc độ tăng trưởng GDP thực đạt ở mức cao và ổn định qua các năm, tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp, ổn định tỷ giá, dự trữ ngoại hối lớn, và đặc biệt phải duy trì lạm phát ở mức thấp (6-8%) trong 3-5 năm. Trước tình hình kinh tế vĩ mô có nhiều bất ổn như hiện nay, chúng tôi xin phân tích những động thái của CP trong thời gian qua mà cụ thể là Quyết định số 11 về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó, nhiệm vụ kiềm chế lạm phát được ưu tiên hàng đầu, quyết định gồm 6 nhóm giải pháp lớn sau:
(1) Chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng;
o   Phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán.
o   Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát.
o   Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.
(2) Chính sách tài khóa, đầu tư công thắt chặt;
o   Phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7-8%
o   Tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011
o   Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP
o   Chưa khởi công các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ
(3) Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng;
o Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu, phấn đấu bảo đảm nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu.
o Chỉ đạo sản xuất, dự trữ, lưu thông, phân phối hàng hóa thông suốt, trước hết là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu,...; tăng cường quản lý giá, bình ổn giá trên địa bàn.
(4) Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo;
(5) Tăng cường đảm bảo an sinh xã hội;
(6) Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền.



1 Nhận xét :

  1. Bài này lấy trên mail lớp không biết nguốn tác giả, nhưng có nhận xét là viết rất hay. Xin cảm ơn nhóm tác giả đã viết bài này..Viết

    Trả lờiXóa