Quỹ đầu cơ sử
dụng nhiều các chiến lược khác nhau, và mỗi người quản lý quỹ sẽ tranh luận rằng họ là duy nhất và không
thể so sánh được với bất kì nhà quản lý nào khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể
nhóm các chiến lược lại thành các mục để hỗ trợ cho các nhà phân tích/nhà đầu
tư trong việc xác định kĩ năng của một nhà quản lý và đánh giá xem làm như thế
nào một chiến lược cụ thể có thể được thực hiện trong một điều kiện vĩ mô nhất
định. Sau đây là một cách định nghĩa sơ lược và không bao gồm chiến lược của
tất cả các quỹ đầu cơ, nhưng nó sẽ cung cấp cho người đọc về các chiến lược
phức tạp theo chiều ngang.
Tìm hiểu về quỹ Hedge Fund (P1)
Phụ
lục 01: Các loại Hedge funds (phân loại theo chiến lược đầu tư)
·
Event driven (3,86%).
·
Global (12,48%).
·
Global macro (11,4%).
·
Market neutral (25,43%).
·
Short sellers (0,86%).
·
US oppotunistics (12,41%).
·
Long only leveraged (0,97%).
·
Market timing (1,75%).
·
Equity non – hedge (4,29%).
·
Foreign exchange (4,29%).
·
Sector (0,32%).
- Funds of funds (7,58%).
- Không thuộc loại nào trong các chiến lược đầu tư
trên (11,98%).
Chiến lược phòng vệ tài sản
Chiến lược phòng
vệ tài sản thường được biết như là mua/bán khống cổ phiếu, và chắc nó có lẽ là
một chiến lược dể hiểu nhất, có vài chiến lược liên quan mà không được liệt kê
trong danh mục dưới đây.
-
Long/Short – Người quản lý có ý định dung hòa các rủi ro trên thị
trường thông qua việc nắm giữ cả hai vị thế long và short của nhiều loại chứng
khoán.
Trong chiến lược này, người quản lý quỹ có
thể tham gia mua cổ phiếu mà họ nghĩ nó được định dưới giá, và bán cổ phiếu khi
chúng được định giá cao. Trong hầu hết các trường hợp, các quỹ sẽ thu được
chênh lệch khả quan trên thị trường cổ phiếu – ví dụ, có khoảng 70% giá trị quỹ
là đầu tư mua vào cổ phiếu và 30% là đầu tư ngắn hạn vào cổ phiếu. Trong ví dụ
này chênh lệch ròng ở thị trường cổ phiếu là 40%(70%-30%) và quỹ không dùng một
chút đòn bẩy nào cả (tổng chênh lệch gộp là 100%). Tuy nhiên, nếu nhà quản lý
tăng vị thế mua trong thị trường cổ phiếu tới 80%, trong khi vẫn quy trì 30% vị
thế bán, tổng chênh lệch gộp của quỹ là 110% (80%+30%), được biết như là dùng
đòn bẩy 10%.
-
Market Neutral –
trong chiến lược này, người quản lý áp dụng các
nội dung cơ bản được đưa ra trong phần trước, nhưng tìm kiếm một sự tối
thiểu hóa chênh lệch lợi suất ở thị trường nước ngoài. Điều này có thể được làm
bằng hai cách. Nếu có một cự ngang bằng trong khoản đầu tư cho hai vị thế ngắn
hạn và dài hạn, thì chênh lệch ròng của quỹ sẽ bằng 0. Ví dụ, nếu 50% đầu tư
vào vị thế dài hạn và 50% đầu tư vào vị thế ngắn hạn thì chênh lệch ròng của
quỹ bằng 0 và chênh lệch gộp của quỹ bằng 100%.
Có hai cách để đạt được market neutral và điều đó có nghĩa là chênh lệch beta bằng 0. Trong trường hợp này, người quản lý
quỹ sẽ tìm một khỏan đầu tư cho cả hai vị thế ngắn hạn và dài hạn do dó tính
toán beta của toàn quỹ sao cho ở mức nhấp nhất có thể. Trong chiến lược market neutral,
mục đích của người quản lý quỹ là có thể loại bỏ bất kì một biến động nào của
thị trường và chỉ dựa vào khả năng của mình để lựa chọn cổ phiếu.
Cả hai chiến lược long/short có thể được sử dụng trong
một khu vực, ngành hoặc khu vực công nghiệp, hoặc có thể được áp dụng cho các
cổ phiếu vốn hóa cụ thể…Trong thế giới của các quỹ đầu cơ, ở đó mọi người cố
gắng tìm sự khác biệt của họ, bạn sẽ phát hiện ra rằng chiến lược cá nhân có
sắc thái độc đáo của nó, nhưng tất cả chúng đều dùng cùng một nền tẳng cơ bản
tương tự được miêu ta ở đây.
Global Macro
Người quản lý đầu tư vào các khu vực mà họ cho rằng
ở đó có nhiều cơ hội để thu được lợi nhuận. Nói chung, đây là những chiến lược mà có rủi ro/TSSL
cao nhất trong tất cả các chiên lược của quỹ đầu cơ. Những quỹ Global Macro đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hàng hóa,
quyền chọn, hợp đồng kì hạn, hợp đồng tương lai và các loại công cụ khác. Chúng
có xu hướng đặt cược vào một xu hướng tăng giá của tài sản và chúng thường được
dùng đòn bẩy cao. Hầu hết các quỹ này có một chiên lược đa dạng hóa toàn cầu,
bởi vì với chiến lược đa dạng hóa các khoản đầu tư và quy mô thị trường có thể
giúp họ phát triển được khá nhanh trước khi bị thách thức bởi vấn đề về năng
lực. Nhiều quỹ đầu cơ tăng trưởng nóng nhất là Global Macro, bao gồm quỹ Long-Term Capital Management và Amaranth
Advisors. Cả hai đều là
những quỹ khá lớn và có tỷ lệ đòn bẩy cao.
Relative value arbitrage
Người quản lý
hướng tới việc tận dụng chênh lệch giá giữa các công cụ như cổ phiếu, trái
phiếu, các hợp đồng lựa chọn (option), hợp đồng tương lai (future). Họ sử dụng
các phân tích về khối lượng, về kỹ thuật để phát hiện ra các cơ hội đầu tư. Nội
dung cơ bản là một người quản lý quỹ đầu cơ được mua một chứng khoán mà kì vọng
sắp tới sẽ được đánh giá, trong khi đồng thời bán khống chứng khoán có liên
quan mà kì vọng giá giảm. (hiểu môn na như kinh doanh chênh lệch kiểu bán
khống). Chứng khoán liên quan có thể là cổ phiếu và trái phiếu của công ty đặc
biệt nào đó; những chứng khoán này ở hai công ty tương tự trong cũng lĩnh vực
(ví dụ, HSG và HPG vào tháng 5/2013); hoặc hai loại trái phiếu được phát hành
bởi cùng một công ty với ngày đáo hạn và lãi suất coupons khác nhau. Trong mỗi trường hơp, có một giá trị tương
đương mà dễ dàng được tính toán từ những chứng khoán có liên quan đến nhau
nhưng chỉ khác ở một vài đặc điểm của chúng.
Chúng ta hãy
nhìn vào bảng sau làm một ví dụ:
Giá
|
Coupon
|
Kì hạn
|
Tỷ lệ sinh lời
hiện tại
|
$1,000.00
|
6%
|
30 years
|
6%
|
$1,276.76
|
8%
|
30 years
|
6%
|
Coupons được trả sau tháng một lần
|
|||
Kì hạn được giả định giống nhau
|
Giả định rằng
một công ty có hai loại trái phiếu cơ bản: một trả 8% và cái kia trả 6%. Cả hai
đều dựa vào tài sản công ty và cùng ngày đáo hạn. Vì trái phiếu 8% được trả lãi
suất cao hơn, nó nên bán với một khoản lợi suất cao hơn trái phiếu 6%. Khi trái
phiếu 6% được giao dịch với giá là 1000$, thì trái phiếu 8% nên được bán với
giá là 1,276.76$, trong điều kiện các yếu tố khác ngang bằng. Tuy nhiên, khoản
lợi suất cao hơn này thường không được định giá đúng tương ứng, do đó làm một
cơ hội cho các quỹ đầu cơ tham gia vào một giao dịch để tận dụng chênh lệch tạm
thời. Giả định rằng trái phiếu 8% chỉ được bán với giá là 1,100$ trong khi trái
phiếu 6% bán với giá 1,000$. Để tận dụng lợi thế của sự khác biệt giá này, một
người quản lý quỹ đầu cơ đã mua trái phiếu 8% và bán khống trái phiếu 6% để mà
tận dụng sự khác biệt giá tạm thời này. Tôi tận dụng được một khoản chênh lệch
lớn trong tỷ suất vượt chội này chỉ tại một thời điểm. Trong thực tế, sự chênh
lệch từ những khoản đâu tư này là hẹp hơn, điều hành quỹ đầu cơ phải chấp nhận
sử dụng mức đòn bẩy cao để mà làm cho mức lợi nhuận đáng kể.
Convertible
Arbitrage
Đây cũng là một
hình thức của Relative value arbitrage . Trong khi, một vài quỹ đơn
giản là đầu tư vào trái phiếu chuyển đổi, thì cũng có quỹ đầu cơ dùng arbitrage
chuyển đổi tạo vị thế trong cả hai trường hợp chuyển dổi trái phiếu và chuyển
dổi cổ phiếu của một công ty cụ thể nào đó. Một trái phiếu chuyển đổi có thể
được chuyển đổi thành một số cổ phần. Giả định rằng một trái phiếu chuyển đổi
đang được bán với giá 1000$ và được chuyển đổi thành 20 cổ phiếu của một công
ty cổ phần. Điều này ám chỉ giá thị trường của cổ phiếu là 150$. Tuy nhiên,
trong một giao dịch arbitrage, một người quản lý quỹ đầu cơ sẽ mua trái phiếu
chuyển đổi và bán khống cổ phiếu trong trường hợp dự đoán giá trái phiếu tăng,
giá cổ phiếu giảm, hoặc cả hai.
Nhớ rằng có thêm
hai biến khác góp phần vào xây dựng giá của một trái phiếu chuyển đổi hơn là
giá của cổ phiếu cơ bản. Một là, trái phiếu chuyển đổi sẽ bị ảnh hưởng bởi sự
thay đổi của lãi suất, cũng giống như một vài trái phiếu khác. Hai là, giá của
nó cũng chịu sự tác động của lựa chọn gắn liền để mà chuyển đổi từ trái phiếu
thành cổ phiếu, và lựa chọn gắn liền này bị ảnh hưởng bởi những biến động. Do
đó, mặc dù trái phiếu đang được bán với giá 1000$ và cổ phiếu đang được bán với
giá 50$ (Trường hợp này là tương đương), người quản lý quỹ sẽ tham gia vào một
giao dịch arbitrage chuyển đổi nếu họ cảm thấy răng: 1) các biến động hàm ý
trong phần tùy chọn là quá thấp, hoặc 2) là một sự giảm trong lãi suất sẽ tăng
giá của trái phiếu hơn là sự tăng giá của cổ phiếu.
Mặc dù ngay cả
khi họ không chính xác và giá cả tương quan duy chuyển theo chiều hướng trái
ngược bởi vì vị thế không chịu tác động của một thông tin cụ thể nào của công
ty, ảnh hưởng của sự dịch chuyển là quá nhỏ.
Sau đó, một người quản lý arbitrage phải tham gia vào một số lượng lớn
vị thế để mà cố gắng tạo ra nhiều khoản lời nhỏ cùng với mức độ rủi ro hấp dẫn
cho nhà đầu tư. Một lân nữa, như trong
những chiến lược khác, nhà quản lý sẽ dùng đòn bẩy để phóng đại lợi nhuận.
Chiến lược đầu tư vào công ty sắp phá sản
Người quản lý
đầu tư vào chứng khoán của các công ty đang trong giai đoạn tái cơ cấu hoặc bên
bờ phá sản. Họ hy vọng mua các chứng khoán này với giá thấp và bán lại khi công
ty đã được phục hồi.
Những quỹ đầu cơ mà đầu tư vào những cổ phiếu của công ty sắp phá sản là
rất độc đáo. Trong nhiều trường hơp, các quỹ đầu cơ này có thể tham gia cho vay
hoặc tham giá tái cấu trúc và cử người của mình vào ban quản trị của công ty để
mà giúp phục hồi lại công ty.
Đó không phải để
nói rằng tất cả quỹ đầu cơ đều làm việc này, nhiều trong số họ mua chứng khoán
trong kì vọng rằng chứng khoán sẽ tăng giá trị dựa trên các nguyên tắc cơ bản
và chiến lược hiện tại của ban quản trị.
Trong cả hai
trường hợp, chiến lược này bao gồm mua trái phiếu mà đã bị mất đi một lượng
đáng kể giá trị vì sự bất ổn tài chính của công ty hoặc những sự kì vọng của
nhà đầu tư rằng công ty đang trong trình trạng thảm khốc. Trong trường hợp
khác, một công ty có thể thoát khỏi tình trạng phá sản và quỹ đầu cơ sẽ mua được
trái phiếu với giá thấp nếu họ đánh giá tình hình công ty sẽ cải thiện đủ để
làm trái phiếu tăng giá. Chiến lược này có thể rất rủi ro như là việc nhiều
công ty không cải thiện được tình hình.
Ngoài ra còn rất nhiều chiến lược đầu tư
khác mà tác giả không trình bày, và dùng biểu đồ để thể hiện sự phổ biến của
từng chiến lược được sử dụng.
Kết luận
Quỹ đầu cơ có
rất nhiều chiến lược, nhiều chiên lược không có ở đây. Mặc dù những chiến lược đã
được miêu tả ở trên nhưng cũng ở trong những điều kiện rất đơn giản và trong
thực tế có thể phức tạp hơn rất nhiều.
Ặc, lên google search từ khóa " Thư ứng tuyển" ko ngờ lại ra trang của ông
Trả lờiXóa-NDTung-